Võ Duy Dương (còn gọi là thiên hộ Dương do giữ chức thiên hộ) là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Đồng Tháp Mười. Theo tư liệu của chi họ Võ ở xã Nhơn Tân - huyện An Nhơn - tỉnh Bình Định và của Ban nghiên cứu lịch sử tỉnh Bình Định thì ông sinh năm 1827 tại thôn Cù Lâm Nam nay là thôn Nam Tượng I - xã Nhơn Tân, một thôn nhỏ dưới chân núi Thơm, cách sông Côn 4 km về phía Nam, cách làng Kiên Mỹ 12 km. Ông tổ của ông là Võ Hữu Mang từ miền Bắc vào đây lập nghiệp, đến ông là đời thứ 6.
Theo lời kể của cháu nội Võ Duy Dương là Võ Quế (85 tuổi, năm 1989) thì Võ Duy Dương là con thứ ba trong nhà, từ nhỏ đã sáng trí, khỏe mạnh, giỏi võ nghệ. Khi cha qua đời, gia đình sa sút, ông phải đi chăn trâu để kiếm sống, sau được vị quan sở tại cảm thông hoàn cảnh nghèo khó và mến tài nên nhận làm con nuôi. Trong một kì thi võ, ông cử được 5 trái linh, mỗi trái 60 cân (hai tay xách 2 trái, hai nách kẹp 2 trái, răng cắn 1 trái) nên từ đó được mọi người gọi là Ngũ Linh Dương. Ông có người anh thứ là Võ Duy Tân sau tham gia phong trào Cần Vương ở Bình Định do Mai Xuân Thưởng lãnh đạo. Sau khi Mai Xuân Thưởng chết, ông Tân lại theo Võ Trứ, bị Pháp bắt và xử án chém cùng nhiều nghĩa quân khác tại Gò Chàm (Bình Định) ngày 13-9 năm Đinh Dậu (tức 9-10-1898), thọ 73 tuổi.
Năm 1853, theo đề nghị của các quan, vua Tự Đức ban hành chính sách đồn điền. Năm 1857, hưởng ứng chính sách trên, Võ Duy Dương vượt biển vào Nam tìm đến đất Ba Giồng ở ven Đồng Tháp Mười (nay thuộc các huyện Châu Thành, Cai Lậy, Cái Bè của tỉnh Tiền Giang) chiêu dân lập ấp, kết bạn với Nguyễn Hữu Huân (thủ khoa Huân) và trở thành hào phú ở địa phương. Tháng 2-1859 Pháp đánh chiếm Gia Định. Ông cùng thủ khoa Huân kéo lực lượng về Gia Định đánh Pháp và được phong chức chánh quản đạo. Sau khi Gia Định thất thủ, ông vượt biển về kinh bái yết vua, hiến kế đuổi giặc. Ông được điều về Quảng Nam dẹp cuộc nổi dậy của người Thạch Bích và được phong hàm chánh bát phẩm thiên hộ năm 1860. Tháng 4-1861 Pháp đánh chiếm Mỹ Tho. Tháng 5-1861 ông được cử theo phái bộ của khâm sai quân vụ Đỗ Thúc Tịnh vào Nam với nhiệm vụ chiêu mộ nghĩa dũng chống giặc. Ông mau chóng mộ được gần một ngàn người, trong đó có cả lính đánh thuê của Pháp và một người Pháp là Liguet nên được phong chức quản cơ. Ông đóng quân ở Bình Cách, liên kết với Trương Định ở Gò Công, Trần Xuân Hoà (phủ Cậu) ở Thuộc Nhiêu và Đỗ Thúc Tịnh ở Mỹ Quý. Quân của ông giương cao khẩu hiệu Cần Vương chống Pháp, lấy Đồng Tháp Mười là vùng rừng đầm lầy, hiểm trở bậc nhất Nam bộ thời ấy làm căn cứ, dùng chiến thuật du kích đánh Pháp trên một vùng rộng lớn từ Hà Tiên, Rạch Giá đến Đồng Tháp, gây cho chúng nhiều tổn thất. Nhưng nghĩa quân đang quyết chiến thì nhà Nguyễn kí với Pháp hiệp ước Nhâm Tuất (ngày 5-6-1862) rồi buộc các tổ chức nghĩa quân phải hạ khí giới. Ông không tuân lệnh nên bị triều đình tước binh quyền và lùng bắt. Trương Định rồi thủ khoa Huân hi sinh. Ông vẫn không nản, cùng Nguyễn Tấn Kiều (đốc binh Kiều, là phó tướng), Trần Kỳ Phong, thống Bình, lãnh binh Dương, thương Chấn, thống Đa, quản Văn, quản Là… tổ chức đánh Pháp quyết liệt hơn. Ngày 14-4-1866 Pháp huy động ngót một ngàn quân cùng nhiều tàu chiến, đại bác chia làm 3 mũi đồng loạt tiến công từ 3 hướng Cần Lố, Cái Nứa, Bắc Chiêng, quyết đánh chiếm sở chỉ huy nghĩa quân. Nhiều trận đánh ác liệt xảy ra, quân Pháp bị tiêu hao không ít song nhờ có binh hoả lực mạnh, chúng chiếm được Đồn Trung, khiến nghĩa quân phải rút đi. Sau đó Võ Duy Dương vẫn phối hợp Trương Quyền (con Trương Định) và Acha Xoa (lãnh tụ nghĩa quân Cambodia) đánh thắng Pháp nhiều trận lớn. Tháng 10-1866 ông dùng thuyền đi đường biển ra Bình Thuận để cầu sự giúp đỡ của triều đình và liên lạc với nghĩa sĩ miền Trung nhằm gây dựng lại lực lượng. Dựa vào phân tích của Gustave Janneau về 2 bản tấu kín (nay chưa tìm thấy) mà Võ Duy Dương dâng vua Tự Đức thì rất có thể triều đình cho vời ông ra Huế để ông trình bày kĩ hơn việc "đề nghị nhà vua cho dùng mưu kế thu hồi 3 tỉnh miền Đông", "nếu nhà vua cho lệnh, ông có thể tiêu diệt hết binh lính Pháp ở các kênh rạch nhỏ hẹp, nơi đại bác mất tác dụng". Cũng không loại trừ khả năng triều đình tìm cách bó tay ông để chiều lòng Pháp, không để Pháp lấy cớ vì ông "phá quấy" mà lấn chiếm thêm đất (bấy giờ Pháp cho là ông vẫn ẩn náu ở 3 tỉnh miền Tây). Trong sách sử có đoạn: "Tháng 9 Bính Dần, Nguyễn Hữu Có đến lị sở, đi qua Gia Định có bảo sứ Pháp rằng bè lũ Võ Duy Dương nên cho ra đầu thú, dồn đi khai khẩn. Khi Có đến Vĩnh Long đem việc ấy đến nói kín với Phan Thanh Giản. Giản bèn tư cho các tỉnh… phàm bè lũ Duy Dương đều cho ra đầu thú đi khẩn hoang. Lại sắc cho tuần phủ Bình Thuận, Khánh Hòa hễ thấy tên Dương, tên Tuệ thì đổi tên, cấp ngựa trạm về kinh, phái đi nơi khác cho hết điều tai tiếng".

Đến thờ Võ Duy Dương và Nguyễn Tấn Kiều ở Đồng Tháp

Đền thờ Võ Duy Dương ở Bình Định
Thật không may, khi đến cửa biển Cần Giờ, Võ Duy Dương và các thuộc hạ tâm phúc đều bị cướp biển sát hại. Vì vậy, lí do ông ra Huế vẫn là ẩn số.
Tuy vẫn còn vài ý kiến khác nhưng theo những nỗ lực tìm kiếm, xác minh gần đây, nhiều nhà nghiên cứu lịch sử đồng thuận rằng Võ Duy Dương bị cướp biển giết ở mũi Thị Khiết (Thần Mẫu) thuộc vùng biển Cần Giờ vào khoảng tháng 10-1866, lúc ông mới 39 tuổi.
Báo cáo của Nguyễn Đức Hạnh gửi chánh sở mật thám Pháp có đoạn: "Người này tên là Dương đã bỏ trốn sau khi Tháp Mười bị chiếm. Ông lên ghe bầu để đi Bình Thuận. Trước khi tới xứ này, ông đã bị tên Lý Sen cầm đầu một đám cướp biển tấn công. Lý Sen đi một chiếc thuyền mành mà người ta gọi là thiền du, đã cho liệng xuống biển tất cả những người An Nam đi trên ghe bầu. Lý Sen lục lọi trong một cái rương lớn, lấy tất cả áo quần, cấp bằng và mũ miện của thiên hộ nguyên soái tên Võ Duy Dương". Nguyễn Đức Hạnh còn cho biết sau đó tên Sen bị bắt vì Hai Sĩ tố cáo y đã cướp bóc nhiều ghe biển và y đã cắn lưỡi chết trong ngục.
Tác giả Schreiner trong quyển Đại Nam quốc sử cũng xác nhận nguồn tin này: "Người ta nghe tin ông Võ Duy Dương mới chết chìm tại phía mũi Đinh (Padaran), là nơi ông đánh với ba chiếc ghe tàu ô của đảng ăn cướp. Quân ấy hạ hết người trên hai ghe".
Trong dân gian ở xã Mỹ Thọ - huyện Cao Lãnh - tỉnh Đồng Tháp còn lưu truyền câu chuyện sau khi thất thủ ở Đồng Tháp Mười, Võ Duy Dương rút qua An Giang, Rạch Giá, bị cướp biển chặn đánh và chết ở cửa biển Rạch Giá (địa điểm khác với 2 tài liệu trên).
Ngoài ra còn có 2 tư liệu cho rằng Võ Duy Dương mất ngoài biển cả nhưng vì bão tố làm đắm thuyền. Đại Nam thực lục chính biên có đoạn: "Thiên hộ Dương ủy người về dâng sớ kín. Vua sai Vũ Trọng Bình hỏi kín, cốt phải hỏi đến chỗ cùng bàn cho ổn thỏa. Rồi được quan Thuận Khánh báo rằng Võ Duy Dương đi thuyền về tỉnh Bình Thuận đầu thú gặp gió nên bị đắm ở phận biển Thần Mẫu, sai đi tìm xác, chi đồ vật đem chôn, cấp cho mẹ hắn mỗi tháng 5 quan tiền, 1 phương gạo". Nam kì phong tục nhân vật diễn ca của Nguyễn Liên Phong có đoạn: "Thoát thân về với ghe bầu - Khỏi nơi Cần Hải tiền xu đoán thoàn - Giấc nồng đêm dậy nhảy khan - Hồn chôn bụng cá ưng oan chẳng cần".
Để tưởng nhớ Võ Duy Dương, tại Gò Tháp thuộc xã Mỹ Hòa - huyện Tháp Mười - tỉnh Đồng Tháp, người dân đã lập đền thờ và đền thờ này đã được công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia. Tại đây, cứ ngày 14-11 âm lịch hàng năm người dân lại long trọng tổ chức lễ giỗ chung của thiên hộ Võ Duy Dương và đốc binh Nguyễn Tấn Kiều. Tại nơi ông sinh ra là xã Nhơn Tân - huyện An Nhơn - tỉnh Bình Định, năm 1997 chi họ ông đã góp tiền xây dựng đền thờ và hàng năm đều tổ chức tế lễ.

Lễ đón tượng đồng Võ Duy Dương (15/12/2007)
Ngày 15-12-2007, Hội khoa học lịch sử đã trao tặng đền thờ Võ Duy Dương tại xã Nhơn Tân một tượng đồng chân dung ông. Đền thờ ông tại Gò Tháp có đôi câu đối: "Sử sách sáng chói danh Thiên Hộ - Bia miệng lưu truyền tiếng đốc binh". Trong dân gian thì lưu truyền câu ca dao: "Chiều chiều mây giục gió vần - Cảm thương thiên hộ xả thân cứu đời"./.
www.hovuvovietnam.com
|